Scholar Hub/Chủ đề/#bệnh lý mạch vành/
Bệnh lý mạch vành là một tình trạng nguy hiểm trong đó các động mạch cung cấp máu đến cơ tim bị tổn thương hoặc bị hẹp lại do tắc nghẽn.
Nguyên nhân chính của...
Bệnh lý mạch vành là một tình trạng nguy hiểm trong đó các động mạch cung cấp máu đến cơ tim bị tổn thương hoặc bị hẹp lại do tắc nghẽn.
Nguyên nhân chính của bệnh lý mạch vành là do sự tích tụ các chất béo, calcium và các tạp chất khác tạo thành các khối bám trên thành động mạch, tạo thành các plaques mạch vành. Khi các plaques này tăng lên kích thước, cản trở lưu thông máu đến cơ tim, gây ra những triệu chứng như đau thắt ngực, khó thở và có thể dẫn đến nhồi máu cơ tim.
Bệnh lý mạch vành có thể là do nhiều yếu tố khác nhau như di truyền, lối sống không lành mạnh (như hút thuốc, tiêu thụ quá nhiều rượu, ăn nhiều chất béo), tuổi tác, tình trạng béo phì, bệnh tiểu đường, tăng huyết áp.
Để phòng ngừa và điều trị bệnh lý mạch vành, người ta thường khuyến nghị thực hiện các biện pháp như duy trì một lối sống lành mạnh (bao gồm ăn uống lành mạnh, tập thể dục, không hút thuốc), kiểm soát các yếu tố nguy cơ (như đường huyết, cholesterol, huyết áp), và sử dụng thuốc được chỉ định bởi bác sĩ. Trong một số trường hợp nặng, phẫu thuật mở mạch vành hoặc đặt các stent (ống thông khí) có thể là cần thiết.
Bệnh lý mạch vành là tình trạng khi các động mạch cung cấp máu đến cơ tim (còn được gọi là các mạch vành) bị hạn chế hoặc tắc nghẽn. Điều này dẫn đến giảm lưu lượng máu và oxy đến các cơ tim, gây ra các triệu chứng như đau thắt ngực (angina), mệt mỏi, khó thở và có thể dẫn đến nhồi máu cơ tim (trái tim không nhận được máu và oxy đủ, gây tổn thương nghiêm trọng cho cơ tim).
Nguyên nhân chính của bệnh lý mạch vành là qui trình gọi là atherosclerosis, trong đó là sự tích tụ các chất béo, calcium, tạp chất và tế bào màu trắng trong thành động mạch và tạo thành plaques. Các plaques này có thể lớn dần và gây hẹp các lumen của động mạch, hạn chế lưu lượng máu đi qua. Nếu plaques bị nứt hoặc vỡ, một tụ huyết khối có thể hình thành và gây tắc nghẽn gần hoặc hoàn toàn của động mạch.
Các yếu tố nguy cơ cho bệnh lý mạch vành bao gồm:
1. Tuổi tác: nguy cơ tăng theo tuổi, đặc biệt là từ tuổi trung niên trở đi.
2. Giới tính: Nam giới có nguy cơ cao hơn nữ giới, nhưng nguy cơ nữ giới tăng sau khi tiếp xúc với hormone nữ trong thời kỳ tiền mãn kinh và mãn kinh.
3. Di truyền: nếu có người thân (cha mẹ, anh chị em) mắc bệnh lý mạch vành, nguy cơ tăng.
4. Lối sống: hút thuốc, tiêu thụ nhiều chất béo, natri, đường và cồn; thiếu vận động, béo phì, tăng huyết áp, tăng cholesterol, bệnh tiểu đường đều là yếu tố nguy cơ tăng cho bệnh lý mạch vành.
Các biện pháp phòng ngừa và điều trị bệnh lý mạch vành bao gồm:
1. Thay đổi lối sống: ăn uống lành mạnh, tập thể dục đều đặn, giảm stress, ngừng hút thuốc và hạn chế tiêu thụ cồn.
2. Kiểm soát yếu tố nguy cơ: quản lý huyết áp, đường huyết, cholesterol và cân nặng.
3. Sử dụng thuốc: như thuốc giảm cholesterol, thuốc trị tăng huyết áp, thuốc chống đông máu.
4. Phẫu thuật mở mạch vành: trong trường hợp bệnh nặng, có thể cần phẫu thuật để tạo đường thông máu mới hoặc bỏ qua các đoạn động mạch bị tắc nghẽn.
5. Đặt stent: một ống thông khí thường được đặt vào các động mạch tắc nghẽn để giữ động mạch mở rộng và tăng lưu lượng máu.
Điều quan trọng là tìm kiếm sự chăm sóc y tế định kỳ và tuân thủ các chỉ định và khuyến nghị từ bác sĩ để phòng ngừa và quản lý bệnh lý mạch vành.
Hiệu quả của Propofol, Desflurane và Sevoflurane đối với sự phục hồi chức năng cơ tim sau phẫu thuật động mạch vành ở bệnh nhân người lớn tuổi có nguy cơ cao Dịch bởi AI Anesthesiology - Tập 99 Số 2 - Trang 314-323 - 2003
Bối cảnh
Nghiên cứu hiện tại đã điều tra tác động của propofol, desflurane và sevoflurane đối với sự phục hồi chức năng cơ tim ở bệnh nhân phẫu thuật động mạch vành có nguy cơ cao. Bệnh nhân có nguy cơ cao được định nghĩa là những người trên 70 tuổi có bệnh lý ba mạch vành và phân suất tống máu dưới 50%, với khả năng điều chỉnh chức năng cơ tim phụ thuộc chiều dài bị suy giảm.
Phương pháp
Bệnh nhân phẫu thuật động mạch vành (n = 45) được phân ngẫu nhiên để nhận truyền kiểm soát mục tiêu của propofol hoặc gây mê qua đường hô hấp với desflurane hoặc sevoflurane. Chức năng tim được đánh giá trong và sau phẫu thuật 24 giờ bằng cách sử dụng catheter Swan-Ganz. Trong phẫu thuật, một catheter áp lực độ tin cậy cao được đặt tại tâm nhĩ và thất trái và phải. Phản ứng với tải trọng tim gia tăng, được thực hiện qua việc nâng chân, được đánh giá trước và sau tuần hoàn phổi nhân tạo (CPB). Tác động lên khả năng co bóp được đánh giá qua việc phân tích thay đổi dP/dt(max). Tác động lên khả năng thư giãn được đánh giá qua việc phân tích sự phụ thuộc tải của thư giãn cơ tim. Mức độ Troponin I trong tim sau phẫu thuật được theo dõi trong 36 giờ.
Kết quả
Sau CPB, chỉ số tim và dP/dt(max) thấp hơn đáng kể ở bệnh nhân dùng gây mê propofol. Sau CPB, việc nâng chân dẫn đến giảm dP/dt(max) lớn hơn đáng kể ở nhóm propofol, trong khi phản ứng ở nhóm desflurane và sevoflurane tương đương với phản ứng trước CPB. Sau CPB, sự phụ thuộc tải của sự sụt áp suất tâm thất trái cao hơn đáng kể ở nhóm dùng propofol so với nhóm dùng desflurane và sevoflurane. Mức độ Troponin I cao hơn đáng kể ở nhóm dùng propofol.
Kết luận
Sevoflurane và desflurane nhưng không phải là propofol đã bảo toàn chức năng tâm thất trái sau CPB ở bệnh nhân phẫu thuật động mạch vành có nguy cơ cao, với ít dấu hiệu tổn thương cơ tim sau phẫu thuật.
#Propofol #Desfluran #Sevofluran #Phẫu thuật động mạch vành #Chức năng cơ tim #Bệnh nhân người lớn tuổi có nguy cơ cao #Chỉ số tim #Troponin I #Tuần hoàn phổi nhân tạo (CPB) #Dấu hiệu tổn thương cơ tim
Đánh giá kết quả bước đầu chụp và can thiệp động mạch vành qua da tại Bệnh viện Trung ương 103 Quân đội Nhân dân LàoMục tiêu: Đánh giá kết quả chụp và can thiệp động mạch vành qua da tại Bệnh viện Trung ương 103 Quân đội Nhân dân Lào. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang kết hợp hồi cứu trên 37 bệnh nhân chụp và can thiệp động mạch vành qua da tại Bệnh viện Trung ương 103 Quân đội Nhân dân Lào từ tháng 4/2021 đến tháng 4/2022. Kết quả: Tuổi trung bình của bệnh nhân là 76,58 ± 6,24, yếu tố nguy cơ thường gặp là: Tăng huyết áp (62,1%), béo phì (48,6%), rối loạn lipid máu (45,9%), đái tháo đường (31,1%), thuốc lá (32,4%). Tổn thương động mạch liên thất trước là thường gặp nhất (51,7%). Tổn thương đa thân động mạch vành cũng chiếm tỷ lệ gần 50%. Can thiệp động mạch liên thất trước chiếm 51,7%. Tỷ lệ can thiệp thành công 88,8%. Tỷ lệ tai biến trong can thiệp là 0%. Tỷ lệ biến chứng sau can thiệp là 8,1%, tỷ lệ tử vong là 0%. Kết luận: Bước đầu triển khai chụp và can thiệp động mạch vành tại Bệnh viện Trung ương 103 Quân đội Nhân dân Lào đã mang lại những kết quả ban đầu khả quan, tỷ lệ tai biến và biến chứng trong giới hạn cho phép.
#Bệnh lý động mạch vành #chụp mạch vành qua da #can thiệp động mạch vành qua da
Yếu tố di truyền trong bệnh lý động mạch vành - vai trò của các nghiên cứu liên quan đến sinh học phân tửTạp chí Tim mạch học Việt Nam - - 2018
Bệnh tim mạch là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu thế giới. Ở Việt Nam, 1/4 số người tử vong mỗi năm do mắc các vấn đề về tim mạch, trong đó bệnh lý động mạch vành (ĐMV) là một trong những nguyên nhân thường gặp nhất.
Về mặt lâm sàng, xơ vữa động mạch do hậu quả của sự lắng đọng cholesterol và quá trình viêm trong thành động mạch, cả hai đều được kích hoạt bởi các yếu tố nguy cơ truyền thống như tăng huyết áp, tăng lipid máu hoặc đái tháo đường. Một yếu tố nguy cơ khác là đột biến gen được xác định ở cá thể có tiền sử gia đình dương tính. Trong những năm gần đây, nhiều nghiên cứu sinh học phân tử đã xác định vai trò tác động mạch mẽ của các biến thể di truyền đến biểu hiện của xơ vữa ĐMV. Kết quả là đã có164 locus (vị trí) trên nhiễm sắc thể (NST) được xác định bởi các nghiên cứu liên kết trên toàn bộ hệ gen (GWAS) tác động tới nguy cơ mắc bệnh ĐMV. Trên thực tế nghiên cứu, tất cả các đột biến gen nguy cơ được phát hiện bởi GWAS thường được tìm thấy trong quần thể dân số chung, như mỗi cá thể khu vực Tây Âu mang từ 130 đến 190 alen nguy cơ tại các locus đã được biết đến trong toàn bộ hệ gen (có 0, 1 hoặc 2 alen nguy cơ trên mỗi locus). Có thể giả định rằng, cách phân bố đa dạng này khiến cho con người dễ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố lối sống, làm tăng nguy cơ xơ vữa ĐMV. Cho đến nay, đã có nhiều đột biến gen liên quan đến nguy cơ bệnh ĐMV đã được phát hiện và các nhà khoa học đã cố gắng nhóm các đột biến gen này vào trong các nhóm chức năng để từ đó đưa ra các quan điểm phòng ngừa hoặc điều trị. Tại Việt Nam, từ năm 2013, sau khi phát hiện đột biến gen Fibrinogen beta (FGB) ở một bệnh nhân nhồi máu cơ tim (NMCT) có cơ địa dễ hình thành huyết khối, đã có nhiều nghiên cứu khác trong lĩnh vực này được tiến hành nhằm xác định các đột biến gen mới trong các bệnh lý tim mạch nói chung và bệnh lý ĐMV nói riêng. Điều này có ý nghĩa rất lớn trong việc ghi nhận đặc điểm đột biến gen tác động đến tỉ lệ mắc bệnh lý ĐMV nói riêng ở Việt Nam, góp phần thay đổi nhận thức của nhân viên y tế trong sàng lọc, chẩn đoán cũng như điều trị các yếu tố nguy cơ liên quan đến đột biến gen cũng như các tổn thương tim mạch liên quan.
U XƠ ĐÀN HỒI THỂ NHÚ Ở THẤT TRÁI KẾT HỢP BỆNH LÝ MẠCH VÀNH: NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢPU tim nguyên phát là một bệnh rất hiếm gặp, chiếm khoảng 0,0017 –
0,28%. Trong đó, u xơ đàn hồi thể nhú kết hợp với bệnh lý mạch vành cực kỳ hiếm gặp. Chúng tôi xin báo cáo một trường hợp theo dõi sau phẫu thuật 4 tháng u xơ đàn hồi thể nhú ở thất trái kết hợp với bệnh lý mạch vành. Bệnh nhân nữ 67 tuổi, vào viện vì đau tức ngực trái, siêu âm tim qua thành ngực và thực quản phát hiện u kích thước khoảng 14x18mm, bám xung quanh ½ trên chân trụ cơ trước bên, mật độ âm bằng cơ tim, di động nhiều, hở van 2 lá và van 3 lá nhẹ, không tăng áp phổi, chức năng tâm thu thất trái trong giới hạn bình thường. Chụp động mạch vành: hẹp 40% thân chung động mạch vành, 80% động mạch liên thất trước, 90% lỗ vào động mạch mũ và 80% động mạch vành phải. Bệnh nhân được phẫu thuật tim hở bằng đường mở ngực dọc giữa xương ức, cắt u thất trái qua đường mở nhĩ trái qua van 2 lá, bắc 3 cầu động mạch chủ - động mạch vành. Mô bệnh học sau mổ là u xơ đàn hồi thể nhú. Sau phẫu thuật bệnh nhân ổn định, ra viện sau mổ ngày. Hiện tại 4 tháng sau mổ bệnh nhân hoàn toàn khỏe mạnh, siêu âm tim không phát hiện tái phát.
SHOCK PHẢN VỆ TRÊN BỆNH NHÂN CÓ BỆNH LÝ MẠCH VÀNH: NHÂN MỘT TRƯỜNG HỢPSốc phản vệ là một tình trạng nguy kịch khi cơ thể tiếp xúc với các kháng nguyên gây mẫn cảm. Lý thuyết kinh điển về bệnh học của sốc phản vệ là giãn mạch hệ thống, tụt huyết áp, giảm tưới máu mạch vành,tăng tính thấm thành mạch, giảm cung lượng tim trầm trọng và suy sụp tuần hoàn. Một số báo cáo lâm sàng cho thấy cơ tim và mạch vành là đích tác động đầu tiên của các chất trung gian hóa học trong phản ứng phản vệ. Ở các bệnh nhân như vậy, các chất trung gian gây viêm như histamine, tryptase, leukotriene… được giải phóng gây ra co thắt động mạch vành và bong mảng xơ vữa. Hội chứng này được gọi là hội chứng vành cấp liên quan đến phản ứng phản vệ, hay hội chứng Kounis. Trong bài này, chúng tôi muốn trình bày một ca lâm sàng: bệnh nhân nam 53 tuổi, tiền sử bệnh mạch vành, có phản ứng phản vệ với kháng sinh Cefoperazone, sau đó xuất hiện nhồi máu cơ tim cấp tính trong khi đang được phẫu thuật bắc cầu chủ đùi. ST chênh điện tâm đồ xuất hiện sớm trên bệnh nhân có tiền sử mạch vành làm bác sỹ điều trị theo hướng nhồi máu cơ tim trước khi nghĩ đến phản ứng phản vệ. Điều nàylàm chậm trễ việc cho thuốc Adrenalin, thời gian huyết tụt kéo dài, tạo vòng xoắn bệnh lý làm nặng thêm mạch vành. Bác sỹ gây mê cần có kiến thức về hội chứng Kounis và thận trọng với các phản ứng phản vệ trên đối tượng bệnh nhân có bệnh lý mạch vành. Đôi khi điều trị quá mạnh mẽ shock phản vệ lại làm bệnh mạch vành nặng lên trên bệnh nhân có hội chứng Kounis.
#shock phản vệ #nhồi máu cơ tim #gây mê hồi sức
U nhầy nhĩ trái kết hợp bệnh lý mạch vành: Ca lâm sàng U nhầy nhĩ trái kết hợp với hẹp động mạch vành là bệnh lý hiếm gặp tại Việt Nam. Chúng tôi xin chia sẻ kinh nghiệm về chẩn đoán và điều trị trường hợp bị u nhầy nhĩ trái kèm theo hẹp động mạch vành được phẫu thuật cấp cứu thành công. Trường hợp bệnh nhân nam, 64 tuổi, tiền sử hút thuốc lá nhiều năm, nhập viện vì đau ngực và lâm sàng suy tim cấp. Siêu âm tim phát hiện khối u nhầy nhĩ trái kích thước lớn (29 × 44mm) bám vào thành nhĩ trái, gây hẹp khít van 2 lá. Chụp động mạch vành thấy hẹp nặng động mạch vành phải (95%). Bệnh nhân được phẫu thuật cắt u nhầy nhĩ trái kết hợp bắc cầu động mạch chủ - động mạch vành bằng đoạn tĩnh mạch hiển đảo chiều. Bệnh nhân sau mổ không có biến chứng, được theo dõi 5 tháng không thấy u tái phát.
Từ khóa: U nhầy nhĩ trái, hẹp động mạch vành.
#U nhầy nhĩ trái #hẹp động mạch vành
Chất ức chế thụ thể Glykoprotein-IIb/IIIa tiểu cầu trong điều trị bệnh mạch vành Dịch bởi AI Herz - - 2003
Sự chặn đứng thụ thể Glykoprotein-(GP-)IIb/IIIa tiểu cầu gắn với màng là một chiến lược đổi mới nhằm hướng tới việc ức chế mạnh mẽ hoạt động của tiểu cầu trong khu vực của các mảng bám động mạch vành bị vỡ. Thụ thể GP-IIb/IIIa liên kết với fibrinogen tuần hoàn hoặc yếu tố Von-Willebrand, từ đó dẫn đến sự kết nối của các tiểu cầu như một con đường cuối cùng chung của sự kết tụ tiểu cầu. Thuốc tiêm tĩnh mạch được chỉ định chống lại các thụ thể này, bao gồm một đoạn kháng thể đơn dòng chimeric (Abciximab) và các mimetic peptid (Eptifibatid) cũng như không peptid (Tirofiban và Lamifiban). Trong nhiều nghiên cứu lâm sàng lớn có kiểm soát giả dược, các chất này đã được đánh giá về hiệu quả của chúng. Trong bối cảnh can thiệp mạch vành qua da, đã đạt được mức giảm tuyệt đối nguy cơ trong vòng 30 ngày mắc phải điểm cuối kết hợp từ tử vong và nhồi máu cơ tim hoặc cần cấp cứu tái thông mạch là từ 1,5–6,5%. Có sự biến thiên đáng kể về hiệu ứng điều trị giữa các chất được kiểm tra (Abciximab, Eptifibatid, Tirofiban). Hiệu ứng điều trị được chứng minh rất sớm và với mọi loại can thiệp mạch vành, và đã được ghi nhận ngay cả qua thời gian dài (> 3 năm). Nguy cơ chảy máu gia tăng có thể được giảm thông qua việc giảm liều và điều chỉnh trọng lượng của quá trình điều trị heparin đồng thời. Trong trường hợp hội chứng vành cấp không ST-segment elevation trên điện tâm đồ, nguy cơ mắc điểm cuối kết hợp từ tử vong và nhồi máu cơ tim trong vòng 30 ngày được giảm 1,5–3,2% nhờ vào thời gian điều trị 2-4 ngày với Eptifibatid hoặc Tirofiban. Một lợi ích lâm sàng đã được chứng minh trong cả giai đoạn điều trị và sau đó. Tái thông mạch vành sớm làm tăng hiệu quả của sự chặn đứng thụ thể GP-IIb/IIIa. Mục tiêu của việc sử dụng các chất này là ổn định trước can thiệp và giảm bớt các sự kiện thiếu máu liên quan đến can thiệp. Do đó, việc chặn đứng thụ thể GP-IIb/IIIa tiểu cầu như một liệu pháp bổ sung trong các can thiệp mạch vành qua da và điều trị hội chứng vành cấp là phù hợp để giảm thiểu các biến chứng thiếu máu.
#thụ thể Glykoprotein-IIb/IIIa #tiểu cầu #bệnh mạch vành #can thiệp mạch vành qua da #nhồi máu cơ tim #Abciximab #Eptifibatid #Tirofiban
Các phát hiện bệnh lý ở động mạch vành liên quan đến tử vong đột ngột tại Áo Dịch bởi AI Archiv für pathologische Anatomie und Physiologie und für klinische Medicin - Tập 407 - Trang 457-464 - 1985
50 trường hợp tử vong đột ngột do bệnh tim mạch trong nhóm tuổi từ 20-50 tuổi đã được nghiên cứu qua khám nghiệm tử thi. Những phát hiện đáng chú ý nhất là tỷ lệ cao của hẹp và xơ vữa động mạch ở nhánh xuống của động mạch vành trái và một lượng lớn bệnh lý ba động mạch. Rõ ràng rằng, hẹp nặng và xơ hóa của động mạch vành không hoàn toàn liên quan đến tử vong đột ngột, nhưng một số lượng lớn các mạch có hẹp và xơ hóa ở mức độ trung bình đã được phát hiện. Mức độ nghiêm trọng của bệnh động mạch đã được đánh giá bằng điểm số động mạch vành, điều này tính đến các tác động huyết động học của các động mạch vành bị tổn thương trên cơ tim. Chúng tôi cũng nhận thấy rằng những bệnh nhân dưới 35 tuổi tử vong do bệnh tim mạch đột ngột có điểm số động mạch vành rất thấp.
#tử vong đột ngột #hẹp động mạch vành #xơ vữa động mạch #điểm số động mạch vành #bệnh lý tim mạch
Tăng huyết áp theo mùa: Một manh mối để giải thích tỷ lệ cao của tăng huyết áp chưa được nhận biết ở người cao tuổi? Gruppo Italiano di Farmacovigilanza nell’Anziano (GIFA) Dịch bởi AI Aging Clinical and Experimental Research - Tập 15 - Trang 296-300 - 2013
Nền tảng và mục tiêu: Huyết áp được biết đến là chịu ảnh hưởng của mùa, đặc biệt ở người cao tuổi. Mối liên hệ giữa thời tiết lạnh và tăng huyết áp chưa được nhận biết chưa từng được nghiên cứu trước đây. Nghiên cứu hiện tại nhằm đánh giá liệu việc nhận diện tăng huyết áp ở người cao tuổi có theo một mô hình theo mùa hay không. Phương pháp: Tất cả bệnh nhân trên 64 tuổi có chẩn đoán đầu tiên hoặc thứ yếu là tăng huyết áp khi xuất viện (N=4487) trong số 24585 bệnh nhân được nhập viện liên tiếp tại 69 khoa Lão khoa hoặc Nội khoa trong mười khoảng thời gian quan sát hai tháng một lần (Tháng 5–Tháng 6 và Tháng 9–Tháng 10) đã được đưa vào nghiên cứu. Kết quả chính của nghiên cứu là tỷ lệ tăng huyết áp chưa được nhận biết, được định nghĩa là không có đề cập đến tăng huyết áp và/hoặc thuốc hạ huyết áp trong hồ sơ lâm sàng thu thập khi nhập viện, và một chẩn đoán xuất viện là tăng huyết áp có chẩn đoán đầu tiên hoặc thứ yếu. Kết quả: Chúng tôi đã phát hiện tổng cộng 928 bệnh nhân có tăng huyết áp chưa được nhận biết. Việc nhập viện trong khoảng thời gian tháng 9-tháng 10 được liên kết độc lập với kết quả tăng huyết áp chưa được nhận biết (OR 1.25, 95% CI 1.08–1.46), như các yếu tố như nghiện thuốc lá (OR 1.57, 95% CI 1.23–2.0) và phân bổ vào khoa nội (OR 1.21, 95% CI 1.04–1.41). Các tương quan tiêu cực của kết quả là đa bệnh lý (OR 0.85, 95% CI 0.73–0.99), chẩn đoán xuất viện của bệnh lý động mạch vành (OR 0.77, 95% CI 0.64–0.92) hoặc tiểu đường (OR 0.81, 95% CI 0.67–0.97). Kết luận: Tăng huyết áp ở người cao tuổi có thể ít nhất một phần theo một mô hình theo mùa, và phát hiện này có thể liên quan đến quyết định sàng lọc và điều trị.
#tăng huyết áp #người cao tuổi #mô hình theo mùa #bệnh lý động mạch vành #tiểu đường
GIÁ TRỊ CỦA CHỤP CẮT LỚP VI TÍNH HAI NGUỒN NĂNG LƯỢNG TRONG ĐÁNH GIÁ BỆNH LÝ HẸP ĐỘNG MẠCH VÀNH KHÔNG SỬ DỤNG THUỐC KIỂM SOÁT NHỊP TIMMục đích: đánh giá giá trị của chụp cắt lớp vi tính hai nguồn năng lượng mạch vành không sử dụng thuốc kiểm soát nhịp tim trong đánh giá bệnh lý hẹp động mạch vành.Phương pháp: trong thời gian 1 năm từ tháng 1/2012 đến tháng 12/2012 có 108 bệnh nhân chụp CLVT 2 nguồn năng lượng động mạch vành không sử dụng thuốc kiểm soát nhịp tim tại Khoa Chẩn đoán hình ảnh - Bệnh Viện Bạch Mai, đối chiếu với chụp động mạch vành quy ước tại Viện Tim mạch Quốc gia. Tất cả kết quả đọc của CLVT được đối chiếu với kết quả chụp động mạch vành quy ước, từ đó tính ra độ nhạy, độ đặc hiệu và độ chính xác của phương pháp để đánh giá hẹp động mạch vành.Kết quả: chúng tôi thống kê có 108 bệnh nhân (65 nam, 43 nữ, tuổi trung bình 62,9). Nhịp tim trung bình 77,4 lần/phút. Liều tia trung bình 3,66 mSv. Có 84 bệnh nhân (77,8%) chất lượng ảnh tốt. Có 97 bệnh nhân có hẹp mạch vành (89,8%), 11 bệnh nhân không có hẹp động mạch vành (11,2%). Tỉ lệ độ nhạy chung là 92,7%, độ đặc hiệu là 95,7% và độ chính xác là 94,4%.Kết luận: DSCT có giá trị chẩn đoán cao trong bệnh lý hẹp động mạch vành.